Chương 1: Triết học
và vai trò của triết học trong đời
sống xã hội
1. Triết học và những vấn đề cơ
bản của Triết học
1.1 khái
lược về triết học:
Triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự
tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như vậy
thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết
học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ
thống.
1.2 Những vấn đề cơ bản về triết học:
Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau. Trong đó, vấn đề quan trọng nhất được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi dựa trên việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm cơ sở để giải quyết các vấn đề còn lại của triết học. Nó bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học trả lời hai câu hỏi lớn (hai mặt):
- Mặt thứ nhất: Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định đến cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay không?
1.3 Biện
chứng và siêu hình:
-Phương pháp biện chứng:
+ Nhận thức đối tượng trong
các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng và các thành phần của đối
tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở
trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ quát là phát
triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và cả về chất của các
sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh
của các mặt đối lập của mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Do đó,
phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người
nhận thức và cải tạo thế giới và là phương pháp luận tối ưu của mọi khoa
học.
- Phương pháp siêu hình:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách
rời đối tượng ra khỏi các quan hệ được xem xét và coi các mặt đối lập với
nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh; đồng
nhất đối tượng với trạng thái tĩnh nhất thời đó. Thừa nhận sự biến đổi chỉ
là sự biến đổi về số lượng, về các hiện tượng bề ngoài. Nguyên nhân của
sự biến đổi coi là nằm ở bên ngoài đối tượng.
Phương pháp siêu hình có vai trò to lớn trong việc
giải quyết các vấn đề có liên quan đến cơ học cổ điển. Hạn chế là, phương pháp
siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của
những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy
mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không
thấy rừng”.
2. Triết học Mac-Lenin và vai trò trong đời sống xã
hội
2.1 Sự ra đời và phát triển của Triết học Mac-Lênin
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.
+ Triết học Mác ra đời vào những
năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố vững chắc và đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so với phương
thức sản xuất phong kiến.
+ Mặt khác, sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày
càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng lý tưởng về bình đẳng xã hội mà cuộc
cách mạng tư sản nêu ra đã không thực hiện được mà lại làm cho bất công xã hội
tăng thêm, đối kháng xã hội sâu sắc hơn, những xung đột giữa vô sản và tư sản
đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
- Cuối thế kỷ XIX đầu XX, chủ
nghĩa tư bản phát triển cao thành chủ nghĩa đế quốc; giai cấp tư sản ngày càng
bộc lộ rõ tính chất phản động của mình, chúng điên cuồng sử dụng bạo lực trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội xuất hiện những mâu thuẫn mới
đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Trung tâm cách
mạng thế giới chuyển sang nước Nga và sự phát triển của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa cần có một hệ thống lý luận mới soi đường.
2.2
Đối tượng và chức năng của triết học Mac-Lenin
a) Đối tượng của Triết học Mac-Lenin:
Với tư cách là một hình thái phát
triển cao của tư tưởng triết học nhân loại, đối tượng nghiên cứu của triết học
Mác - Lênin tất yếu vừa có sự đồng nhất, vừa có sự khác biệt so với đối tượng
nghiên cứu của các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
Triết học Mác - Lênin xác
định đối tượng nghiên cứu là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động,
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Với triết học Mác - Lênin
thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa học cụ thể đã
được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong
các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học nghiên cứu
những quy luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này.
- Triết học Mác - Lênin có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể. Triết học Mác - Lênin
là sự khái quát cao những kết quả của khoa học cụ thể, vạch ra những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; do đó, trở thành cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận cho các khoa học cụ thể.
+ Các khoa học cụ thể cung cấp
những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát
triển triết học.
+ Các khoa học cụ thể tuy có đối
tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và
phương pháp luận triết học nhất định.
+ Quan hệ giữa quy luật của triết
học và quy luật của khoa học cụ thể là quan hệ giữa cái chung và cái
riêng.
b) chức năng của Triết học
Mac-Lenin:
- Chức năng thế giới quan
+ Thế giới quan là toàn
bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác - Lênin đem lại
thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
- Chức năng phương pháp luận
+ Phương pháp luận là hệ thống
những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các
phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả
tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa
là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện
chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
2.3
Vai trò của Triết học Mac-Lenin trong đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới ở
VN
+ Triết học với
vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng không phải là
một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật
thiết với cuộc sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo cho chúng ta
trong hành động. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ
thể là xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta
có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Và ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, chúng ta không
thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng - một
trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.
+ Thực tế cho thấy hiệu
quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị định hướng cho hoạt động thực
tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung, có tính khái quát
cao mà nó đạt tới chứ không phải và không thể là những lời giải đáp cụ thể cho
từng trường hợp cụ thể.
+ Để có thể giải quyết một cách
có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc
sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: Hoặc là xem thường
triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, dễ bằng lòng
với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn
xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác; hoặc là tuyệt
đối hóa vai trò của triết học và do đó sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều,
áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật chung của triết học mà
không tính đến tình hình cụ thể do không nắm được tình hình cụ thể đó trong
từng trường hợp cụ thể.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri
thức trên đây - tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức khoa
học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình
thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn) - đó
là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của
mình.
*Đánh Giá: sau khi học xong chương 1 thì tôi càng hiểu sâu về sự thiết yếu của môn học, nó gắn liền với cuộc sống quanh chúng ta và lại giúp tôi có tư duy phân tích một cách rõ ràng, học được nhiều thứ mới mẻ...<33
0 Nhận xét